Cần sớm ban hành TCVN, QCVN cho nước mắm truyền thống

Ông Trần Hữu Hiền, GĐ Cty TNHH SX-TM-DV Bảy Hồng Hạnh (BAHOHA CO., LTD)

(VATFI.org.vn) – Hiệp hội Nước mắm truyền thống Việt Nam (VATFI) trân trọng cảm ơn ông Trần Hữu Hiền – GĐ Công ty TNHH Sản xuất-Thương mại-Dịch vụ Bảy Hồng Hạnh – về những ý kiến đóng góp liên quan đến kiến nghị các cơ quan nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất nước mắm truyền thống (NMTT); ban hành các  TCVN, QCVN cho NMTT và; công tác của Hiệp hội:

Đa số doanh nghiệp sản xuất NMTT là những hộ cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên họ rất cần sự hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước ở một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, về mặt kỹ thuật, cần hỗ trợ ban hành TCVN, QCVN cho NMTT theo đặc thù của ngành nghề, hỗ trợ nghiên cứu và ban hành chỉ tiêu Histamine phù hợp với NMTT để tạo cơ hội thâm nhập vào thị trường quốc tế.

Về mặt thị trường, cần hỗ trợ xúc tiến thương mại để giúp doanh nghiệp sản xuất NMTT tiếp cận thị trường, khách hàng trong và ngoài nước.

Về mặt tài chính, cần hỗ trợ các doanh nghiệp NMTT được tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi lãi suất vì đặc thù của nghề sản xuất NMTT là thời gian quay vòng vốn chậm (quy trình sản xuất NMTT tối thiểu là 12 tháng).

Về mặt truyền thông, cần hỗ trợ quảng cáo NMTT cho người tiêu dùng trong và ngoài nước biết để tăng khả năng cạnh tranh.

Về mặt xử lý môi trường, cần có chính sách hỗ trợ kinh phí cho các DN NMTT xây dựng hệ thống xử lý nước thải.

Ngoài ra, để tháo gỡ khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra cho doanh nghiệp NMTT, tôi kiến nghị Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ cơ cấu nợ, khoanh nợ và giảm lãi suất cho DN; miễn thuế TNDN năm 2021 và 2 quý năm 2022; miễn đóng BHXH 6 tháng sau khi nhà nước công bố hết dịch; giảm 50% thuế VAT năm 2021 và 2022; giảm 50% tiền điện, nước các tháng bị ảnh hưởng dịch bệnh.

Một vấn đề cấp bách và không kém phần quan trọng là phải sớm ban hành TCVN, QCVN cho NMTT. VATFI cần đề xuất các vấn đề sau:

Thứ nhất, không đưa chỉ tiêu kim loại nặng như  As, Pb, Hg, Cd vào QCVN vì các kim loại nặng này có tỷ lệ rất thấp trong nước mắm, các kết quả phân tích nước mắm đều cho thấy chúng nằm trong giới hạn cho phép.

Thứ hai, chỉ nên đưa chỉ tiêu vi sinh vật như sau: Tổng số vi sinh vật hiếu khí với mức giới hạn ≤100.000 cfu/ml,  coliforms với mức giới hạn ≤ 100 cfu/ml, không đưa các chỉ tiêu E.coli, Cl. Perfringens, S. Aureus, Salmonella, V. Parahaemolyticus vào QCVN vì trong môi trường nồng độ muối cao như NMTT các vi sinh vật này không phát triển được

Thứ ba, không nên đưa chỉ tiêu Histamin vào QCVN vì nước mắm có độ đạm càng cao thì histamine càng cao, nguy cơ vượt ngưỡng cao hơn và chưa có thông tin nào chứng minh người ăn nước mắm có độ đạm cao như nước mắm cốt bị ngộ độc histamine.

Thứ tư, chỉ tiêu muối nên đưa về mức ≥ 200g/l cho các dòng nước mắm, hiện nay mức quy định đối với nước mắm nguyên chất ≥ 245g/l.

Thứ năm, cho phép tất cả các dòng NMTT được dùng chất phụ gia nằm trong danh mục quy định của Bộ Y tế, ngoại trừ chất bảo quản, hương nhân tạo và phẩm màu và chất tạo sánh.

Cuối cùng, tôi cho rằng, trong công tác của mình, Hiệp hội cần chuẩn bị các kế hoạch cụ thể về các vấn đề sau:

Thứ nhất, cần phát triển thêm hội viên để tăng quy mô cho Hiệp hội.

Thứ hai, cần xây dựng kế hoạch tư vấn cho tất cả hội viên đều tối thiểu đạt chứng nhận HACCP để tăng uy tín và sự tin tưởng của người tiêu dùng.

Thứ ba, cần xây dựng kế hoạch quảng bá ngành nghề NMTT để người tiêu dùng nhận biết và phân biệt các loại nước mắm phi truyền thống (Logo Hiệp hội, hội thảo, hội chợ, web, facebook,…).

Thứ tư, cần xây dựng chương trình hỗ trợ các hội viên gặp khó khăn về kỹ thuật trong sản xuất nước mắm, liên kết tiêu thụ sản phẩm giữa các hội viên,…

Thứ năm, cần xây dựng lực lượng kiểm tra giám sát quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các hội viên trên thị trường.

Thứ sáu, cần xây dựng chính sách chế tài khi các hội viên không tuân thủ các quy định của VATFI.

Bình luận bài viết

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

02024-12-31T23:59:592025-01-19T22:58